Lại phải nhắc lại Bài viết này nhằm
chỉ rõ những ngộ nhận khi cho rằng Việt Nam không hợp pháp hóa mại dâm là
"đạo đức giả", là "biệt lập" với thế giới văn minh...
Vấn đề nên hay không nên hợp pháp
hóa mại dâm là vấn đề phức tạp trên thế giới chứ không phải đơn giản như nhiều
người nghĩ. Theo quan điểm của những nhà Luật học và Xã hội học, luật pháp và đạo
đức là 2 phạm trù riêng nhưng có liên hệ mật thiết. Về cơ bản, mại dâm làm mất
nhân phẩm của phụ nữ và gây phương hại đến nền tảng đạo đức lối sống xã hội,
làm rạn nứt hạnh phúc của mỗi gia đình, kéo theo nhiều loại tệ nạn khác. Do đó
mại dâm bị cấm tại phần lớn các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, một số chính phủ cho rằng
nên "hợp pháp hóa mại dâm để dễ kiểm soát". Tại một số nước, ở các
khách sạn lớn, các khu giải trí, các vùng du lịch đều có các "dịch vụ hộ tống".
Các chính phủ và các nhà làm luật ở các nước này tin rằng: việc cho phép mại
dâm công khai với các biện pháp như cấp giấy phép, quy hoạch khu đèn đỏ... sẽ
giúp quản lý tốt hơn các vấn nạn mà mại dâm gây ra, ngăn ngừa lây nhiễm bệnh xã
hội.
Về ý tưởng là như vậy, nhưng thực tế
sau nhiều năm lại khác hẳn, hợp pháp hóa mại dâm đã trở thành "một giấc mơ
ướt át". Các nước này thường không đạt được những mục tiêu đề ra mà còn
làm vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn, điều này đặc biệt đúng ở các quốc gia
nghèo, vốn có hệ thống quản lý, pháp luật lỏng lẻo (như Peru, Colombia,
Bangladesh). Mặt khác, tại các nước nghèo ở Trung-Nam Mỹ, "hợp pháp mại
dâm để quản lý" chỉ là cái cớ, mục đích thực sự là để tạo thuận lợi cho việc
buôn bán người của giới Mafia vốn lũng đoạn chính quyền các nước này.
Vì sự bế tắc này, một số nước sau một
thời gian đã phải quay lại biện pháp cấm hoàn toàn mại dâm (tiêu biểu là Thụy
Điển, Na Uy và Hàn Quốc). Như một hệ quả, nếu như giai đoạn 1990-2003 có tới 12
nước thực hiện hợp pháp hóa mại dâm, thì từ 2003 tới nay, chỉ có 1 quốc gia làm
theo, bởi bài học thực tế từ các nước đi trước đã cho thấy thất bại của phương
thức này.
Ngành Tội phạm học có nguyên tắc cơ
bản là "không có chỗ cho trí tưởng tượng chủ quan, những lập luận cải
lương thiếu dẫn chứng, sự đơn giản hóa quá mức vấn đề mà không tính tới những yếu
tố ngoại cảnh khác vốn rất phức tạp, rằng nếu làm theo A thì kết quả sẽ là
B", đây lại là điều mà những kế hoạch hợp pháp hóa mại dâm luôn mắc phải.
Theo phân tích chi tiết về Tội phạm học, có 3 nguyên nhân chính khiến việc
"hợp pháp hóa mại dâm để quản lý" luôn gặp thất bại:
Thứ nhất: Các chính phủ này quá chủ
quan về khả năng quản lý của mình trong khi đánh giá thấp khả năng của giới tội
phạm. Trên danh nghĩa, tại các nước này, mại dâm do nhà nước quản lý, người bán
dâm được khám sức khỏe, có giấy phép hoạt động, nhưng thực ra đằng sau lại là
các thế lực Mafia. Đó mới thực sự là thế lực kiểm soát mại dâm, và tất nhiên
chúng không bao giờ chịu từ bỏ những mánh khóe hốt bạc và hợp tác với chính quyền.
Các thống kê thực tế cho thấy việc hợp pháp hóa mại dâm chỉ tạo thêm cơ hội cho
tội phạm dùng chiêu bài "hợp pháp hóa" để núp bóng chính quyền và
bành trướng hoạt động, trong khi nhà nước chỉ có thể "quản lý trên giấy".
Số tiền thuế mà nhà nước thu được cũng rất ít, mà phần lớn lợi nhuận chui vào
túi các thế lực Mafia, tạo thêm thế lực cho chúng.
Thứ hai: Những người ủng hộ hợp
pháp hóa mại dâm đã không tính tới những dạng tội phạm khác luôn đi kèm với mại
dâm. Nhà nghiên cứu Maxwell (năm 2000) đã công bố các bằng chứng về sự móc nối
chặt chẽ giữa mại dâm với buôn bán ma túy, cùng sự tham gia của các dạng tội phạm
khác, đặc biệt là cướp tài sản, buôn người và rửa tiền. Việc hợp pháp hóa một dạng
tệ nạn xã hội đã kéo theo sự lan tràn của các loại tệ nạn khác vốn còn nguy hiểm
hơn.
Thứ ba: Mại dâm từ xưa tới nay luôn
bị các nền văn hóa, tôn giáo bài xích vì đi ngược lại những giá trị chung của
nhân loại về hôn nhân, tình yêu và lòng chung thủy. Do đó, hợp pháp hóa mại dâm
sẽ gây ra sự bất bình của một phần lớn người dân, gây xáo trộn và đổ vỡ các giá
trị đạo đức, đe dọa hạnh phúc hôn nhân, và sự bất hợp tác từ chính người bán
dâm (vì thực sự bản thân họ cũng không muốn hành vi "bình thường" của
mình bị công khai).
Ở CHÂU ÂU
Năm 2014, Mary Honeyball, đại diện thành phố
London phát biểu trước Nghị viện châu Âu:
"Nhiều người nghĩ mại dâm là
nghề cổ xưa nhất trên thế giới. Vì thế một bộ phận dư luận nghĩ rằng chúng ta
nên coi mại dâm là một phần tất yếu của cuộc sống và việc duy nhất chúng ta có
thể làm là quản lý nó tốt hơn. Kiểu tư duy đó chỉ khiến mại dâm phát triển hơn,
khiến mua dâm trở nên bình thường và khiến phụ nữ dễ bị lạm dụng hơn".
Đa số nghị sĩ Nghị viện châu Âu đồng
ý với quan điểm, hành vi mua dâm là vi phạm nhân quyền và là một hình thức bạo
lực chống lại phụ nữ.
Có một cách nghĩ sai lầm rằng: mại
dâm là một hoạt động lâu đời và hầu như xã hội nào cũng tồn tại, cho nên không
cần tốn công ngăn chặn mà phải chấp nhận nó như một "nghề bình thường".
Sự thực, xã hội luôn tồn tại 2 mặt Tốt-xấu, ma túy, hiếp dâm, buôn người...
cũng là những tệ nạn không bao giờ có thể triệt tiêu hết. Một xã hội càng tiến
bộ thì càng phải quyết tâm đấu tranh với những mặt xấu chứ không phải buông
xuôi mặc cho chúng lan tràn. Việc thỏa hiệp với tệ nạn xã hội không làm nó thay
đổi bản chất, mà chỉ dẫn đến sự lụn bại của đạo đức và kỷ cương xã hội. Với những
tác hại rõ ràng gây ra cho xã hội, khi chính quyền buông xuôi việc ngăn chặn mại
dâm và cho hợp pháp hóa loại tệ nạn này, thì giống như "ung thư di
căn", nó sẽ càng lan tràn và ẩn chứa nhiều hiểm họa hơn, xã hội sẽ càng phải
trả giá nặng nề.
Ở ĐỨC
Ví dụ, mại dâm ở Đức được hợp pháp
hoá năm 2001, chính phủ tin rằng như vậy sẽ giúp quản lý mại dâm tốt hơn, chống
bệnh hoa liễu và thu được thuế. Nhưng giờ đây, nhiều người Đức cho rằng chính
quyền đã không đạt được mục tiêu đó mà chỉ làm vấn đề tồi tệ hơn. Hầu hết các
chuyên gia đều đồng ý rằng: "Việc hợp pháp hoá mại dâm đã thất bại".
Những quy định về giấy phép hành nghề, khám sức khỏe... thực tế là vô tác dụng,
vì các nhóm tội phạm có thể dễ dàng làm giả giấy tờ và đe dọa những người nào định
tố cáo.
Chính sách hợp pháp hóa đã thất bại
trên tất cả các mặt. Nô lệ tình dục ở Đức đã lan tràn kể từ khi mại dâm và các
nhà thổ được hợp pháp hóa. Trong thực tế, những quy định quản lý của pháp luật
hầu như không có tác dụng. Trên toàn nước Đức, số hợp đồng bảo hiểm mại dâm được
ký không quá vài chục bản. Trong số hơn 400.000 gái mại dâm ở Đức, chỉ có...
100 người đăng ký hành nghề với chính phủ (tỷ lệ 0,025%), số còn lại vẫn hoạt động
lén lút như trước hoặc dùng giấy tờ giả, vì chẳng gái mại dâm nào muốn tự tiết
lộ danh tính của mình để rồi chuốc lấy sự hổ thẹn. Quy định về giấy phép hành
nghề do vậy đã "thất bại từ trong trứng".
Đức là điểm đến số 1 cho bọn buôn
người đến từ Đông Âu. Để đáp ứng nhu cầu mua dâm tăng mạnh (vì đàn ông không
còn sợ bị pháp luật trừng phạt), số gái mại dâm tăng vọt từ 100 ngàn (năm 2002)
lên tới 400 ngàn (năm 2009). Để tăng "nguồn cung", phụ nữ Đông Âu
ngày đêm bị bọn buôn người săn lùng và đưa vượt biên vào Đức. Công bố năm 2010
cho thấy nạn buôn người đã tăng 70% sau 5 năm mại dâm được hợp pháp hóa. Phần lớn
sự gia tăng này là phụ nữ và trẻ em gái bị buôn bán vào nhà thổ, với ít nhất
20% nạn nhân là vị thành niên. 75% gái mại dâm ở Đức là phụ nữ Đông Âu, phần
nhiều là nạn nhân của bọn buôn người. Đối với phụ nữ Đức, đã có những trường hợp
bị cơ quan bảo trợ xã hội gợi ý phải đi... bán dâm, nếu từ chối sẽ bị cắt trợ cấp
thất nghiệp. Hợp pháp hoá mại dâm cũng làm gia tăng tình trạng phụ nữ Đức đi
bán dâm do họ không còn sợ bị pháp luật xử phạt. Theo khảo sát của Trung tâm
Khoa học Berlin, có tới 4% trong tổng số 3.200 nữ sinh viên tại Berlin cho biết
đã tham gia một số công việc liên quan đến mại dâm.
Bernd Finger, Trưởng cơ quan điều
tra của Cục cảnh sát hình sự bang Berlin cho biết, mafia Nga tại Béclin ngày một
bám rễ, hoạt động chính là tổ chức mại dâm. Mafia làm việc với sự phân chia lao
động hoàn hảo theo ba cấp. Cấp cao là rửa tiền, cấp trung là mại dâm và buôn
người, cấp dưới là ăn cắp ô tô. Gái bán dâm thường phải ăn chia thu nhập với
ông chủ nhà thổ và các bên liên quan khác (như đám mafia bảo kê núp bóng chính
quyền). Để hút khách, nhiều chủ chứa còn tung ra những chiêu "khuyến
mãi" rất vô đạo đức như "Tiệc Buffet mại dâm", trong khi chính
phủ thì bất lực vì hành vi này không còn là phạm pháp nữa.
Các chủ nhà chứa đều chuẩn bị sẵn
sàng đối với các đợt kiểm tra của chính quyền, và họ cũng dặn gái mại dâm cách
khai với cảnh sát. Thường thì các gái bán dâm vẫn khai họ biết về các nhà thổ
qua mạng Internet và tự mua vé xe buýt rồi đến đây một cách tự nguyện. Cơ quan
chức năng giám sát khu vực đèn đỏ phải nghe những lời nói dối đó không biết bao
nhiêu lần nhưng chẳng thể làm gì. Mục đích của chủ nhà thổ là che giấu mạng lưới
buôn bán người, với rất nhiều phụ nữ bị bán tới Đức và bị bóc lột tối đa.
Kỳ vọng về việc thu lợi cho ngân
sách từ mại dâm cũng phá sản. Ban đầu Đức kì vọng sẽ thu hàng chục triệu USD
thuế từ mại dâm, nhưng rốt cục trên 99% là trốn thuế, bởi lẽ đơn giản: "Tội
phạm không bao giờ muốn đóng thuế". Năm 2011, Đức chỉ thu được 326.000 USD
(thế đã là "thành công" so với các năm trước), quá ít ỏi so với hàng
triệu USD phải bỏ ra để quản lý mại dâm mỗi năm. Ví dụ ở Hamburg, nơi có khu
đèn đỏ nổi tiếng nhất nước, trong suốt 10 năm chỉ có 153 gái mại dâm chịu đăng
ký với cơ quan thuế của thành phố. Hoặc tại Bonn, năm 2011 thành phố thu được
18.200 USD thuế từ mại dâm, nhưng đã phải chi tới 116.000 USD để đảm bảo an
ninh cho các khu đèn đỏ, chưa kể chi phí quản lý giấy tờ, khám chữa bệnh và chống
các dạng tội phạm khác phát sinh từ mại dâm. Ví dụ, nếu cho tất cả gái mại dâm ở
Đức đi xét nghiệm mỗi tháng 1 lần như quy định (gói Level 2 tốn khoảng 400
USD/lần), chính phủ Đức sẽ phải chi gần 2 tỷ USD mỗi năm, gấp... 6000 lần số
thuế thu được và còn lớn hơn ngân sách hàng năm cho nhiều lĩnh vực khác. Hệ thống
y tế cũng sẽ quá tải với gần 5 triệu lượt xét nghiệm tăng thêm mỗi năm.
Hiện nay ở Đức, có những chính
khách và nhà nghiên cứu đã lên tiếng đòi bãi bỏ đạo luật hợp pháp hoá mại dâm.
Sau 10 năm đạo luật này được thông qua, theo một nghiên cứu của Ủy ban EU, họ
đi đến một kết luận: "Nạn buôn người để buộc mại dâm ở Đức không những không
giảm mà ngày càng tăng". Bộ trưởng Tư pháp Đức và đại diện cảnh sát đều thừa
nhận tình trạng của gái mại dâm không hề được cải thiện gì từ đó đến nay, thậm
chí sức khỏe của họ còn tồi tệ hơn, tỷ lệ nghiện ma túy cao hơn. Stephan Mayer,
chuyên gia hàng đầu về các vấn đề pháp luật khẳng định, đạo luật này là một sai
lầm và chỉ làm tăng thêm tình trạng tội phạm tại các khu đèn đỏ. Người đứng đầu
nghiệp đoàn cảnh sát Bernhard Witthaut cũng khẳng định, hợp pháp hóa mại dâm ở
Đức đã thất bại và đề nghị xem xét lại đạo luật này. Ông nhấn mạnh, kể từ khi đạo
luật được thông qua, giới ma cô đã nhiều hơn trước và chúng ngày càng tỏ ra táo
tợn hơn trong việc ép buộc phụ nữ phải bán dâm. Hợp pháp hóa mại dâm thực tế chỉ
tạo thêm vỏ bọc "hợp pháp" giúp bọn tội phạm bành trướng hoạt động.
Dư luận cho rằng, những các nước EU
cần học cách làm của người Thụy Điển - nước từng hợp thức hóa nghề mại dâm cách
đây 30 năm. Năm 1998, Quốc hội Thụy Điển đã xét lại, coi mại dâm là bất hợp
pháp, sau khi quốc hội nước này xét thấy không thể kiểm soát nổi việc hợp pháp
hóa mại dâm, trong khi tổn hại về giá trị đạo đức xã hội là quá lớn.
Ở THÁI LAN
Tại Thái Lan, mại dâm bị luật pháp
nghiêm cấm. Đạo luật năm 1960, tiếp đó là Đạo Luật phòng chống mại dâm, BE.
2539 (1996) đã quy định cấm các hành vi mua bán dâm. Mua bán dâm sẽ bị phạt 1
tháng tù và/hoặc 1.000 baht (khoảng 40 USD), mua dâm trẻ em có thể bị tù 6 năm,
còn chủ chứa sẽ bị phạt tù 3-15 năm. Mua dâm trẻ em dưới 18 tuổi bị phạt 4-20
năm tù và phạt tiền 80.000 - 100.000 baht. Năm 2003, Bộ Tư pháp Thái Lan đã từng
đề xuất thảo luận về việc hợp pháp hóa mại dâm.. Tuy nhiên, do vấp phải sự phản
đối của dư luận và những lo ngại về hệ lụy xã hội nên đề xuất bị bãi bỏ.
Luật là như vậy, nhưng trong thực tế,
các nhà thổ lại hoạt động công khai dưới sự bảo kê của Mafia và sự làm ngơ (thậm
chí hợp tác bảo kê) của chính quyền địa phương. Sự trái ngược giữa pháp luật và
việc thực thi lớn đến nỗi nhiều người lầm tưởng mại dâm ở Thái Lan là hoàn toàn
hợp pháp. Ở khía cạnh khác, nó cũng cho thấy sự yếu kém, "tiền hậu bất nhất"
của hệ thống pháp luật Thái Lan, và thậm chí là cả sự lũng đoạn chính quyền địa
phương của tội phạm có tổ chức. Ước tính có hơn 60 ngàn nhà thổ ở Thái Lan, còn
nhiều hơn số trường học ở nước này.
Nhìn qua vẻ ngoài quy củ của các phố
đèn đỏ, nhiều người nước ngoài cho rằng chính phủ Thái Lan đã tổ chức tốt mại
dâm và điều đó sẽ làm giảm tác hại mà mại dâm gây ra (như hối lộ, bảo kê, ma
túy...). Nhưng thực tế, những góc khuất tội ác ẩn sau các khu đèn đỏ này khác
xa so với họ vẫn tưởng. Chính phủ Thái Lan không hề quản lý các khu đèn đỏ, nắm
quyền kiểm soát là các băng đảng tội phạm. Các phố đèn đỏ Thái Lan là nơi ẩn
náu an toàn của những thế lực tội phạm khét tiếng như Hội Tam Hoàng hay Yakuza.
Cuộc đời của người bán dâm tại Thái Lan thực tế luôn đầy rẫy hiểm nguy, bệnh tật,
cũng như phải chịu sự kì thị của cộng đồng vốn thấm nhuần tinh thần Phật giáo
(giáo lý đạo Phật lên án chuyện gian dâm ngoài vợ chồng).
Về mặt xã hội, ước tính 95% nam giới
Thái Lan trên 21 tuổi đã từng quan hệ với gái mại dâm. Một khảo sát năm 1992
cho biết 97% nam thanh niên thường xuyên tìm đến gái mại dâm Tình trạng này tạo
nên một tâm lý xã hội coi phụ nữ chỉ như một thứ đồ chơi tình dục cho đàn ông,
và đến lượt tâm lý này sẽ kích thích những hành vi tội phạm tình dục. Kết quả
là Thái Lan có tỷ lệ hiếp dâm cao nhất Đông Nam Á (~7-8 vụ/100 ngàn dân, gấp 2
lần Philipines, 3 lần Singapore và gấp 5 lần Việt Nam).
Nếu coi hành vi mua dâm trẻ em cũng
là hiếp dâm thì tỷ lệ hiếp dâm của Thái Lan sẽ còn cao hơn con số trên hàng
trăm lần, bởi Thái Lan cũng là điểm đến hàng đầu của những kẻ ấu dâm (thích
quan hệ tình dục với trẻ em). Khoảng 310.000 trẻ em gái Thái Lan phải bỏ học mỗi
năm, và rất nhiều trong số đó đã đi bán dâm. Về chính thức, quan hệ tình dục với
người dưới 18 tuổi là bị cấm, nhưng ước tính vẫn có tới 40% gái mại dâm ở nước
này là trẻ em dưới 16 tuổi. Ước tính 55% gái mại dâm Thái Lan bắt đầu bán dâm
khi chưa đầy 18 tuổi. Tỷ lệ thất học cao ở Thái Lan là điều kiện lý tưởng cho mại
dâm và buôn người phát triển.
Thực trạng các quan chức và cảnh
sát nhận hối lộ để làm ngơ cho các ổ mại dâm là rất phổ biến. Năm 1997, ước
tính có 20-30 nghị sĩ dính líu tới các đường dây mại dâm. Chuwit Kamolvisit, được
coi là "ông trùm của mại dâm Thái Lan", nói rằng ông ta đã hối lộ khoảng
1,5 triệu bảng Anh (khoảng 3 triệu đôla) trong suốt 10 năm cho các chính khách
và cảnh sát để họ làm ngơ cho việc kinh doanh tình dục của ông ta. Chuwit
Kamolvisit sau đó còn dùng tiền thu được từ mại dâm để vận động tranh cử nhằm
tìm cách tiến thân vào giới chính trị gia. Marut, một ma cô nổi tiếng ở Pattaya
và có liên hệ với Mafia Nga, cho biết: Hơn 60% khách hàng của Marut chính là
các quan chức chính phủ, bao gồm cả cảnh sát. Marut gọi đó là "dịch vụ đặc
biệt" cho các nhân vật uy quyền.
Theo UNODC, Thái Lan là một điểm đến
hàng đầu của bọn buôn người làm nô lệ tình dục. Hầu hết phụ nữ bị buôn bán đến
từ Myanma, Campuchia, Lào và Trung Quốc. Với đường biên giới dài và hiểm trở của
Thái Lan, bọn buôn người có thể dễ dàng vượt biên mà không cần giấy tờ. Phụ nữ
từ Thái Lan cũng bị buôn bán tới nhiều nước, đặc biệt là Hà Lan và Đức ở châu
Âu, Nhật Bản, Austrlia, Ấn Độ, Malaysia và các quốc gia Trung Đông. Năm 1991, mỗi
phụ nữ Thái Lan bị bán cho Mafia Nhật với giá 2.400 - 18.000 USD mỗi người. Năm
2006, một nô lệ tình dục đã trốn thoát sau khi giết chết chủ chứa và tố cáo một
đường dây mại dâm do Mafia Nhật (Yakuza) tổ chức, gây chấn động dư luận về sự
thực đen tối ẩn sau "những ảo tưởng về hợp pháp hóa mại dâm để kiểm
soát".
Các khu đèn đỏ ở Thái Lan là tụ điểm
của các nhóm tội phạm có tổ chức người Hoa (nhiều nhóm có liên hệ với Hội Tam
Hoàng) chuyên buôn người, buôn ma túy và tống tiền. Cảnh sát Thái Lan gọi đó là
"Các băng nhóm heo con". Thành phố Pattaya có một ngành công nghiệp
tình dục nhiều tỷ đôla với các đường dây chuyên buôn bán ma túy, rửa tiền và
buôn bán phụ nữ xuyên quốc gia. Nhiều nhóm tội phạm Nga đã thiết lập hoạt động
mại dâm, ma túy và giết mướn ẩn sau các doanh nghiệp hợp pháp như các quán bar
và nhà hàng ở Pattaya. Các trang web du lịch thì khuyến cáo du khách phải cẩn
thận nếu đi vào các khu đèn đỏ như Patpong bởi những nơi này có tỷ lệ tội phạm
tụ tập rất cao, nếu không đề phòng có thể bị lừa hoặc tệ hơn là bị cướp.
Bệnh dịch do mại dâm đem lại cũng
lan tràn, bệnh AIDS đã trở thành vấn nạn lớn với Thái Lan. Năm 2010, Sở kiểm
soát dịch bệnh Thái Lan (DDC) ước tính rằng 40% người bán dâm đã không sử dụng
bao cao su. Báo cáo năm 2008 của DDC cho biết có 532.522 người Thái nhiễm HIV,
chiếm 1,3% dân số trưởng thành, là tỉ lệ "cao nhất ở châu Á" và thứ 4
thế giới., con số thực có thể còn lớn hơn thế rất nhiều, mà một trong các
nguyên nhân chính là do nạn mại dâm gây ra.
Đặc biệt, có nhiều chàng trai Thái
Lan vì gia cảnh nghèo, đã vay mượn tiền để giải phẫu chuyển giới thành nữ giới để
đi bán dâm, trở thành thứ mà người ta gọi là "Thái giám thời hiện đại",
và Thái Lan giờ trở thành cái tên gợi cho nhiều người liên tưởng tới "những
gã đàn ông bệnh hoạn thích đội lốt nữ giới".
Kritaya Archavanitkul, nhà hoạt động
vì quyền con người Thái Lan, nói: "Đáng buồn mà nói, cấu trúc xã hội Thái
Lan có xu hướng chấp nhận mại dâm. Và có thể, chúng ta có những tổ chức Mafia
tham gia vào các đảng phái chính trị, điều này sẽ giúp tệ nạn mại dâm bị lờ đi.
Lý do thứ hai là yếu tố văn hóa, ở Thái Lan, hành vi mua dâm của người đàn ông
được chấp nhận. Các chính khách, chủ yếu là nam giới, tất nhiên, họ không thấy
mại dâm là một vấn đề. Họ biết có nhiều phụ nữ tham gia vào tệ nạn mại dâm ở
Thái Lan. Họ biết rằng một số bị đối xử bạo lực và tàn bạo. Nhưng họ không nghĩ
rằng đó là một hình ảnh khủng khiếp. Và, bởi vì lợi nhuận béo bở lôi cuốn nhiều
người tham gia và cả việc hối lộ, cho nên các chính khách đã nhắm mắt làm ngơ
cho tệ nạn này".
Một gái bán hoa ở Bangkok có tên
Pim cho biết, họ sẽ bị chủ chứa trừng phạt nếu không kiếm đủ khách, đồng thời
thường xuyên bị khách mua dâm đe dọa và bạo hành. Họ không dám bỏ trốn vì lũ ma
cô dọa sẽ tiết lộ chuyện bán dâm, khiến cho gia đình họ xấu hổ và nhục nhã. Rất
nhiều khách làng chơi thích bé gái hoặc thiếu nữ nên những chủ chứa thường tìm
cách săn lùng, lừa gạt trẻ vị thành niên từ các ngôi làng nông thôn.
Cô cho biết: "Người nước ngoài
cho rằng cứ trả tiền là được quan hệ tình dục ở Thái Lan vì cho rằng các cô gái
ở đây thực sự muốn làm chuyện đó mà không hiểu rằng, phần lớn gái bán hoa ở đây
không có sự lựa chọn nào khác và họ luôn mong được giải thoát".
Cuốn tự truyện của Thanadda
Sawangduean, 42 tuổi, một phụ nữ Thái Lan từng làm gái mại dâm, đã được trao giải
thưởng Chommanard năm 2010. Cô đã bị lừa bán làm gái mại dâm ở Pattaya. Tại mỗi
nơi bị lừa tới, cô đều bị đánh đập. Sawangduean cũng từng bị bắt dùng ma túy và
tống vào tù do tàng trữ chất gây nghiện. Cô chia sẻ trên Bangkok Post:
"Tôi đã lún sâu vào con đường nhơ nhớp và giờ phải chịu những ám ảnh cả về
thể xác lẫn tâm hồn. Thông qua cuốn sách, tôi muốn chia sẻ những trải nghiệm cuộc
đời và xem đây như một bài học cho những ai đi nhầm đường lạc lối". Ban
giám khảo cho biết, cuốn sách đã phản ánh sâu sắc vấn nạn mại dâm mà xã hội
Thái đang phải đối mặt./.
Bài: Nguyễn Xuân Quang Đồ Họa:
Sharma Rachana
---Nhận xét---
Năm 2015 bắt đầu cho phép hôn nhân
đồng giới, cũng trong năm này Kito giáo cũng bắt đầu được cho phép thành lập cở
sở giáo dục tư nhân(Đại học công giáo). Năm 2017 hàng loạt các án tử đối với
các tội danh xâm hại nghiêm trọng an ninh quốc gia bị bãi bỏ hoặc giảm án. Năm
2018 chứng kiến sự ngóc đầu dậy của cái thay ma thối rữa ngụy Sài gòn, cùng
hàng loạt chiến dịch xét lại lịch sử, hạ bệ anh hùng cách mạng, vinh danh Việt
gian. Giờ đến lượt vận động công nhận mại dâm là một nghề hợp pháp.
Bằng cách tấn công trực tiếp các
giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống, kết hợp với hoạt động xâm thực, đồng hóa
bằng các giá trị lai căng, vong bản, phản dân tộc, đi cùng với đó là thủ đoạn đấu
tố lực lượng an ninh đồng thời dùng kito giáo để tập hợp lực lượng. Đây rõ ràng
là những bước đi, thủ đoạn đã được lên kế hoạch kỹ lưỡng hòng vô hiệu hóa sức
hoàn toàn sức đề kháng của dân tộc Việt Nam.
100 năm đô hộ của Thực dân Pháp, 20
năm chiếm đóng và chia cắt của Đế quốc Mỹ chúng không thể nuốt chửng được Việt
Nam. Nhưng hơn 40 năm sau ngày tháo chạy của Mỹ vào chư hầu khỏi Việt Nam, kẻ
thù vẫn chưa bao giờ từ bỏ tham vọng khuất phục dân tộc này một lần nữa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét