Ủy ban bảo vệ các nhà báo |
1- Từ câu chuyện về
kiểm duyệt báo chí.
Vừa qua, một tổ chức có tên gọi là “Ủy ban
bảo vệ các nhà báo” (CPJ) công bố một bản phúc trình với nhận định rằng 10 quốc
gia gồm Eritrea, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Turmenistan, Arabia
Saudi, Trung Quốc, Iran, Guinea Xích Đạo, Belarus, Cuba và Việt Nam là những
nước kiểm soát báo chí khắt khe nhất trên thế giới. Vậy CPJ là cái quái gì mà
to mồm lớn tiếng như vậy ?
Tên đầy đủ của CPJ là “Committee to Protect
Journalists” có nghĩa là “Ủy ban bảo vệ nhà báo”. Tổ chức này được thành lập
năm 1981, có trụ sở tại số 330, phố 7, quận 11, thành phố New York, bang New
York, Hoa Kỳ. Về danh nghĩa, đó là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính trị
nhằm bảo vệ các quyền lợi cho các nhà báo.
Tuy nhiên, ngay trong tôn chỉ của nó đã có
màu sắc chính trị khi điều lệ của CPJ viết rằng nó có trách nhiệm “bảo vệ các
nhà báo trên khắp thế giới bị các chính phủ độc đoán truy hại, đe dọa hay quấy
nhiễu khi thi hành nhiệm vụ của mình.” Xin lưu ý cụm từ “chính phủ độc đoán”.
Vậy tiêu chí nào để phân biệt đâu là một chính phủ độc đoán, đâu là một chính
phủ không độc đoán ? Điều này hết sức mù mờ và rõ ràng là che giấu một mục tiêu
chính trị cốt lõi nào đó.
Trên thế giới này, người ta không lạ gì hàng
loạt tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận kiểu NGOs nhưng thực chất lại là
“cánh tay nối dài” của chính quyền Mỹ, của các thế lực chính trị ở Mỹ, của các
cơ quan tình báo của chính phủ Mỹ như CIA, NSA với mục đích can thiệp vào công
việc nội bộ của các quốc gia khác, vi phạm chủ quyền, quyền tự quyết của các
quốc gia khác dưới chiêu bài “thúc đẩy và truyền bá dân chủ”.
Đây không phải là lần đầu tiên CPJ có những
hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Năm 2014, CPJ đã tung tin,
bịa đặt rằng những phần tử phản động chống Nhà nước Việt Nam, vi phạm pháp luật
Việt Nam như Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, Lê Quốc Quân, Nguyễn Hữu Vinh
(nickname Ba Sàm).v.v... là những “nhà báo” trong khi những người này chỉ lập
các trang blog hay worldpress để viết chuyện riêng. Đây rõ ràng là một kiểu “ăn
đứng dựng ngược”, đánh lận con đen của CPJ nhằm hỗ trợ cho các phần tử chống
Nhà nước Việt Nam, vi phạm pháp luật Việt Nam chứ không phải là việc bênh vực
các nhà báo chân chính.
Năm 2015, CPJ đã can thiệp vào việc chính
quyền Việt Nam xử lý ông Kim Quốc Hoa, Tổng biên tập báo “Người cao tuổi” do có
hành vi lợi dụng báo chí để vu cáo và đe dọa người khác, vi phạm pháp luật Việt
Nam.
Đơn cử những vụ việc trên đây để thấy rằng
CPJ chỉ mượn danh là tổ chức phi lợi nhuận bảo vệ nhà báo nhưng thực sự là tổ
chức có mục tiêu chính trị, đội lốt tổ chức phi chính phủ để phục vụ cho các
mục đích can thiệp vào nội bộ nước khác của chính quyền Mỹ. Trên thế giới chính
quyền Nga và các nước khác ở Châu Âu, Châu Á và nhiều nước khác, trong đó có cả
các đồng minh của Mỹ đều không lạ gi cái “mặt nạ” mà CPJ đang đeo để che giấu
bộ mặt thật của nó.
Việc CPJ đưa ra bản danh sách các nước kiểm
soát báo chí khắt khe nhất cũng mang đầy tính chủ quan và chụp mũ. Bởi lẽ chính
nước Mỹ chứ không phải ở đâu khác mới là nước có sự kiểm duyệt báo chí khắt khe
nhất. Ngay cả các tài liệu của chính quyền Mỹ như tài liệu mật của Nhà Trắng,
tài liệu mật của Ủy ban Quân sự thuộc Thượng viện và Hạ viện Mỹ. tài liệu mật
của Lầu Năm Góc, tài liệu mật của CIA, tài liệu mật của NSA… khi được giải mật
và được các báo chí đăng tải vẫn có nhiều đoạn bị bôi đen, bị đánh dấu là không
công bố nhằm bảo vệ… “quyền lợi của nước Mỹ”. Sao CPJ không yêu cầu chính phủ
Mỹ phải công khai đầy đủ toàn bộ nội dung cả những tài liệu đó ?
Các thông tin về việc lính Mỹ bị nhiễm phóng
xạ bởi đạn chứa uranium nghèo mà quân đội Mỹ sử dụng trong Chiến tranh Iraq lần
thứ nhất (1991-1992) cũng bị chính quyền Mỹ cấm báo chí tiếp xúc với lính Mỹ bị
phơi nhiễm, cấm đăng tải thông tin. Vụ việc chỉ bị lộ ra sau đó hàng chục năm.
Vậy tại sao CPJ không yêu cầu chính phủ Mỹ phải công khai sự thật khi họ gây
hại cho chính công dân Mỹ ?
Rồi việc ngoại trưởng Mỹ trình ra trước Hội
đồng Bảo an Liên Hợp quốc một ống bột giặt và bảo rằng đó là chất có chứa vi
trùng bệnh than để lấy cớ phát động Chiến tranh Iraq lần thứ hai (2003 đến nay)
thì báo chí Mỹ lập tức hùa vào ủng hộ. Tờ báo nào nói ngược lại thì bị đình
bản, bị tịch thu. Và hơn 10 năm sau, khi chính quyền Mỹ và Anh đã thừa nhận
không có vũ khí hủy diệt ở Iraq thì báo chí Mỹ lại lờ đi. Vậy tại sao CPJ không
đặt vấn đề công khai thừa nhận sai lầm đó của chính quyền Mỹ ?
Cách đây gần 2 năm, khi đương kim Tổng thống
Mỹ tuyên bố không hoan nghênh phóng viên của hãng truyền hình Mỹ CNN và loại
các phóng viên của CNN khỏi các cuộc họp báo ở Nhà Trắng thì người ta tìm mỏi
mắt cũng chẳng thấy CPJ ở đâu để bênh vực cho các nhà báo của CNN.
Qua đây có thể thấy quan điểm của CPJ, trong
đó có quan điểm liệt 10 quốc gia vào danh sách các nước có chế độ kiểm soát báo
chí khắt khe nhất không phải là quan điểm độc lập như tổ chức này vẫn rêu rao.
Đó thực sự là quan điểm của chính giới Mỹ, hay nói cụ thể hơn là quan điểm của
những phần tử trong chính giới Mỹ có tư tưởng thù địch với các nước được nêu ra
trong danh sách, trong đó có quan điểm thù địch với Việt Nam, bênh vực những kẻ
vi phạm pháp luật Việt Nam, chống đối Nhà nước Việt Nam.
Việc CPJ đưa ra danh sách 10 quốc gia có chế
độ kiểm soát báo chí khắt khe nhất là nhằm mục đích chính trị, vu cáo các nước
khác chứ không hề là việc làm vô tư được đánh bóng bằng cái mác phi lợi nhuận
và độc lập như cái nhãn hiệu của CPJ. Tốt nhất là CPJ nên chú tâm bảo vệ các
nhà báo trong nước Mỹ đang bị chính quyền Mỹ hạn chế quyền tự do báo chí thay
vì can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
2- Đến việc xử lý bằng pháp luật đối với
những kẻ mượn danh nhà báo để vi phạm pháp luật, chống đối chính quyền nước sở
tại.
Trăng trợn hơn, CPJ còn cho rằng 4 nước gồm
Việt Nam, Trung Quốc, Arabia Saudi và Iran đã bỏ tù và sách nhiễu các nhà báo
cùng gia đình họ; cơ quan chức năng cũng có những biện pháp giám sát mạng, kiểm
duyệt Internet, mạng xã hội. Về sự vu cáo này, bà Lê Thị Thu Hằng, người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tuyên bố: “Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những nội
dung sai sự thật dựa trên những thông tin không chính xác, thiếu khách quan về
tình hình Việt Nam trong báo cáo nói trên”. Nhiều người trong giới phân tích
bình luận chính trị cho rằng phát ngôn cra bà Lê Ti Thu Hằng như vậy còn là quá
nhẹ nhàng. Dĩ nhiên là các nhà ngoại giao đều không muốn dùng những ngôn từ
mạnh mẽ hơn một khi xét thấy chưa cần thiết.
Còn nói trắng ra thì các cáo buộc của CPJ
chính là tiếng nói phụ họa với luận điệu sai trái của một số nhóm người Việt
chống chính quyền Việt Nam đã bỏ Tổ Quốc chạy sang Mỹ và phương Tây để định cư.
Đối với Việt Nam, sự vu khống hèn hạ và bỉ ổi đó không có mục đích nào khác hơn
là sự yểm trợ về mặt tinh thần và gây áp lực chính trị để bênh vực những phần
tử phản động chống chính quyền Việt Nam, vi phạm pháp luật Việt Nam, gây phương
hại cho an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội cả Việt Nam. Hơn nữa, đó còn
là một sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam nhằm hạ thấp uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế
Trên thế giới hiện nay không hề có một khái
niệm công dân toàn cầu. Nghề nghiệp thì có thể là khái niệm xuyên biên giới,
xuyên quốc gia. Nhưng một con người cụ thể thì luôn là công dân của một quốc
gia, thành viên của một dân tộc nhất định. Các nhà báo cũng vậy. Trước hết, họ
phải là công dân của một quốc gia, có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với quốc gia
của mình, dân tộc của mình trước khi là “con người của công chúng toàn cầu”. Và
vì thế, những nhà báo ấy trước hết phải tuân thủ pháp luật của quốc gia mình,
tuân theo phong tục, tập quán của quốc gia mình, có những ứng xử phù hợp với
chính dân tộc của mình. Đó là vấn đề đạo đức, chính trị và luật pháp cốt lõi
đối với bất cứ một nhà báo chân chính nào.
Chính phủ Việt Nam không bỏ tù các nhà báo mà
bỏ tù những kẻ vi phạm luật pháp Việt Nam, bỏ tù những kẻ đã gây phương hại cho
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của Việt nam, gây phương hại cho nền
độc lập, tự do, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bất kể họ từng là
nhà báo, từng là chính khách (thậm chí đến cả Ủy viên Bộ Chính trị), từng là
doanh nhân, từng là nhà giáo, từng là kỹ sư hay là một người không nghề nghiệp
.v.v… Chính quyền Việt Nam chỉ bỏ tù tội phạm mà thôi. Và trước khi bị xét xử,
những kẻ phạm tội này đã bị tước các chức danh, danh hiệu .v.v… Đối với những
kẻ phạm tội từng là nhà báo cũng vậy thôi. Họ bị tước danh tính nhà báo trước
khi bị xét xử và tuyên án. Vì vậy nói Việt Nam bỏ tù nhà báo không những là một
sự vu cáo trắng trợn, bịa đặt trắng trợn mà còn là trò đổi trắng thay đen nhằm
xuyên tạc chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam, yểm trợ cho các thế lực
chống lại nhà nước Việt Nam; đồng thời cũng là một sự ngu dốt về pháp lý.
Tất nhiên, bản báo cáo nói trên của CPJ thu
được sự tán thưởng của một số phần tử người Việt chống Việt Nam đang lưu vong ở
Mỹ, ở một số nước khác và một số kẻ phản loạn trong nước cũng như được một số
hãng truyền thông chống Việt Nam như BBC Việt ngữ, VOA Việt ngữ, RFA, RFI lan
truyền. Nhưng những kẻ chống đối ấy chỉ là số nhỏ so với 100 triệu người Việt
Nam ở cả trong và ngoài nước. Còn tuyệt đại đa số người dân Việt Nam vẫn tin
tưởng ở chính quyền của mình, một chính quyền của dân, do dân, vì dân chứ không
vì một vài cá nhân có căn bệnh “thần kinh chính trị”.
Còn trong những năm qua, uy tín của Việt Nam
đã ngày càng được cả thế giới khẳng định. Những nguyên thủ các nước từ lớn đến
nhỏ trên thế giới, các chính khách từ khắp năm châu đến Việt Nam đều thừa nhận
uy tín đó. Thế nên, báo cáo của CPJ là những tiếng nói lạc lõng, là những sự vu
khống nhằm mục đích chính trị bẩn thỉu sẽ sớm chìm đi trong làn sóng thông tin
trung thực, khách quan của dư luận nhân dân tiến bộ, yêu hòa bình và công lý
trên toàn thế giới.
3- CPJ tiếp tục vu cáo xằng bậy về Luật An
ninh mạng của Việt Nam.
Bản phúc trình của CPJ còn cho rằng Luật An
Ninh Mạng bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam kể từ đầu năm 2019 có những quy định
tùy tiện, mơ hồ giới hạn quyền tự do biểu đạt của người dân, cho phép giới chức
chính quyền kiểm duyệt chặt chẽ hơn các nội dung trên mạng. Đây là điều mà các
thế lực phản động, thù địch với Việt Nam đã không ngớt rêu rao trong suốt hơn
một năm qua.
Tại sao chúng phải liên tục rêu rao như vậy ?
Đơn giản là vì Luật An ninh mạng của Việt Nam ra đời và việc thực thi luật đó
đã chấm dứt việc các thế lực phản động, thù địch độc chiếm và lợi dụng không
gian mạng trong một thời gian dài để tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt…
chống lại nền độc lập, tự chủ của Việt Nam, chống lại Nhà nước và Nhân dân Việt
Nam.
Trước hết, cần phải nói thẳng rằng các cáo
buộc của CPJ đối với Luật An ninh mạng Việt Nam là một sự can thiệp trắng trợn
và thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam. Mỗi quốc gia-dân tộc đều có nền
tảng đạo đức chính trị pháp lý của riêng mình cũng như phong cách ứng xử phù
hợp với luật pháp quốc tế. Việc Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ban hành Luật An ninh mạng là việc riêng của Việt Nam, là công việc nội bộ
của Việt Nam, là sự thể hiện quyền độc lập, quyền tự chủ của Việt Nam. Bất cứ
một thế lực bên ngoài nào cũng đều không có quyền can thiệp.
Như có lần đã phát biểu trên kênh truyền hình
đối ngoại của Việt Nam (VTV4), tôi khẳng định lại một lần nữa rằng việc Quốc
hội Việt Nam ban hành Luật An ninh mạng là sự khẳng định chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên không gian mạng bên cạnh các không
gian khác thuộc chủ quyền của Việt Nam như vùng đất, vùng trời, vùng biển và
hải đảo.
Sự cáo buộc của CPJ càng trở nên tùy tiện và
trơ trẽn hơn khi cả thế giới này có tới 128 quốc gia đã ban hành các đạo luật
về an ninh mạng, trong đó có Hoa Kỳ. Và trong 128 quốc gia ấy có đến 18 quốc
gia có Luật An ninh mạng là một đạo luật độc lập trong hệ thống luật pháp của
họ. Tuy chỉ là một tổ chức dân sự nhưng CPJ đã tùy tiện đưa ra những cáo buộc
vu khống trịch thượng nói trên hệt như giọng điệu của một chính quyền. Vậy thực
tế như thế nào ?
Thực tế là Luật An ninh mạng của Việt Nam có
tới trên 70% các quy định có tính tương đồng với Luật An ninh mạng của nhiều
nước trên thế giới, trong đó có cả Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nga… những nước Châu Á
(không kể Trung Quốc) như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia,
Singapore và nhiều nước khác.
Còn những quy định riêng có trong Luật An
ninh mạng Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm riêng có về hệ thống chính
trị, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Những quy
định này hoàn toàn phù hợp với “Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị
năm 1966” được ban hành với sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam là một
trong các bên tham gia từ năm 1991.
Điều 1 của Công ước này quy định: “Mọi dân
tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định
thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa”
Đây là điểm cụ thể hóa điều tương tự đã được
quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc 1946. Nó có nghĩa là “quyền quyết định
về thể chế chính trị của một quốc gia hay quyền lựa chọn chế độ xã hội (xã hội
chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa, thể chế chính trị một đảng hay đa đảng, thể chế
quân chủ lập hiến hay dân chủ đại nghị, thể chế tổng thống toàn quyền hay tổng
thống nửa quyền .v.v…) cũng như các quyết định về pháp luật như thế nào là
quyền đương nhiên của mỗi quốc gia-dân tộc và được coi như công việc nội bộ của
quốc gia-dân tộc đó, các quốc gia-dân tộc khác không được quyền xâm phạm hoặc
can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào.
Điều 19 của Công ước quốc tế về quyền dân sự
và chính trị 1966, có nội dung quy định về “quyền giữ quan điểm” và “quyền tự
do ngôn luận” đã ghi rất rõ và cụ thể như sau: “Việc thực hiện những quyền này
được kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt của công dân”, và “ phải
chịu một số hạn chế nhất định” trong trường hợp:
a- “Để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của
người khác.
b- Để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự
công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
Đối chiếu với hai điều này cho thấy Luật An
ninh mạng của Việt Nam có những quy định hạn chế phù hợp và cần thiết như:
a- “Nghiêm cấm các hành vi lợi dụng việc cung
cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích: (1) Chống
lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (2) Đưa thông tin xuyên tạc,
vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;…”
(Theo điều 5, Nghị định của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
Internet và thông tin trên mạng)…”
b- “Nghiên cấm các hành vi lợi dụng không
gian mạng để tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi
kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”.
c- “Nghiêm cấm việc lợi dụng không gian mạng
để xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng
tộc;”
d- “Nghiêm cấm việc lợi dụng hoặc lạm dụng
hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để
trục lợi" (Điều 8 Luật An ninh mạng)…”
Đó là những quy định hoàn toàn tương thích
với “Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966”nói riêng và công pháp
quốc tế về quyền con người nói chung nên không thể kết luận tùy tiện và hết sức
xằng bậy như cáo buộc của CPJ được.
Không biết đến những quy định này của quốc tế
cũng như không biết chính xác nội dung cụ thể của Luật An Ninh mạng Việt Nam mà
lại nghe theo những kẻ thù địch với Việt Nam xúi bẩy để đưa ra những thông tin
vu cáo, bịa đặt trong bản phúc trìhn thì mọi người đủ biết trình độ của đội ngũ
lãnh đạo CPJ “tài giỏi” đến đâu, cho dù họ tự quảng cáo là những “nhà báo nổi
tiếng” ở Mỹ và phương Tây mà tôi đã biết tên nhưng xin phép không nêu ra ở đây.
Một lần nữa, xin nhắc lại rằng mỗi quốc gia
đều có quyền xây dựng hệ thống luật pháp của mình, ban hành luật pháp của riêng
mình nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia-dân tộc mình, bảo vệ an ninh, trật tự của
đất nước mình, của dân tộc mình. Đó là quyền độc lập, tự chủ, là quyền thiêng
liêng bất khả xâm phạm. Bất cứ thế lực bên ngoài nào dù là chính phủ hay phi
chính phủ xâm phạm quyền đó, can thiệp vào việc thực hiện quyền đó đều là bất
hợp pháp, đều là sự vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc và đều đáng bị lên án
mạnh mẽ.
Không giống như mặt trận đấu tranh quân sự,
mặt trận đấu tranh về tư tưởng trên không gian Internet với vũ khí muôn thuở là
truyền thông, là báo chí, là các phương tiện thông tin đại chúng… là cuộc chiến
không có hồi kết. Một khi còn tồn tại những kẻ còn mang tư tưởng thù địch với
Nhân dân Việt Nam, với nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn tồn tại
những kẻ mong dựa vào ngoại bang để mở cuộc “chiến tranh xâm lược” Việt Nam
trên không gian mạng thì Nhân dân Việt Nam, với sự ủng hộ của nhân loại yêu
chuộng hòa bình và tiến bộ sẽ còn phải chiến đấu quyết liệt để quét sạch chúng
đi.
Nguồn: FB Tâm Minh
Nguyễn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét