Sau hàng loạt báo
cáo nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do Internet của Bộ Ngoại giao Mỹ và một số tổ
chức nhân quyền quốc tế đưa ra gần đây, trong đó có nội dung lên án Việt Nam vi
phạm quyền tự do Internet, những kẻ khoác áo “đấu tranh dân chủ” được dịp vu
cáo Việt Nam không có tự do Internet, công kích luật An ninh mạng, ca ngợi nước
Mỹ như xứ sở tự do tuyệt đối, bày tỏ thương cảm số phận người dân Việt Nam đang
phải ở trong “nhà tù lớn”, thậm chí hàng chục tổ chức tôn thờ cờ vàng 3 sọc ở Mỹ
hô hào chiến dịch xuống đường hưởng ứng “hào khí 10/6” nhằm tưởng niệm ngày biểu
tình phản đối dự thảo Luật đặc khu và dự thảo Luật An ninh mạng 3 năm trước
đây. Thực tế, hình mẫu nước Mỹ với tự do Internet, tự do ngôn luận, tự do thông
tin,…có như họ mơ tưởng và vẽ vời lòe bịp dân Việt hay không?
Năm 2001, tổng thống
Mỹ George W. Bush thông qua đạo luật PATRIOT. Đạo luật này đã trao cho chính phủ
các quyền lực mới để tiến hành giám sát điện tử đối với các nghi phạm khủng bố.
Theo đó, FBI có thể tìm kiếm điện thoại, e-mail và hồ sơ tài chính mà không cần
lệnh của tòa án; và có thể sự truy cập mở rộng vào hồ sơ kinh doanh, bao gồm
thư viện và hồ sơ tài chính. Kể từ khi thông qua, một số thách thức pháp lý đã
được đưa ra để chống lại hành động này và các tòa án liên bang đã phán quyết rằng
một số điều khoản là vi hiến. Điểm mập mờ và nguy hiểm của đạo luật này nằm ở
chỗ, kể cả khi không biết ai là tội phạm, chính phủ vẫn có quyền giám sát người
đó. Thực tế là đạo luật này đã tác động đến mọi người dân Mỹ, biến tất cả người
Mỹ thành nghi phạm để bị giám sát. Sau nhiều phản ứng dữ dội của người dân,
chính phủ Mỹ vẫn không hề loại bỏ đạo luật này, mà chỉ đổi sang tên khác.
Đến thời của tổng
thống Barrack Obama, đạo luật Chia sẻ thông tin an ninh mạng (CISA) được thông
hành. Đạo luật này cho phép các công ty, tập đoàn tư nhân chia sẻ thông tin lưu
lượng truy cập Internet với chính phủ Hoa Kỳ, nhất là những thông tin liên quan
đến an ninh mạng. Cũng dưới thời kỳ của tổng thống Obama, bộ nguyên tắc Trung lập
mạng (Network Neutrality) được thông qua, ngăn chặn việc các nhà mạng chặn băng
thông nhằm ép buộc người dùng phải sử dụng dịch vụ của mình. Trung lập mạng đã
gây ấn tượng tốt đối với nhiều người ủng hộ tự do ngôn luận vì nó có thể giúp đảm
bảo rằng những tiếng nói và quan điểm đa chiều được lan tỏa trên mạng nhanh
chóng và tự do hơn.
Tuy nhiên, sự tự
do, an toàn mà người Mỹ có được dưới thời kỳ của tổng thống Obama thực chất chỉ
là tự do giả dối. Bằng chứng là, vào năm 2007, toàn thể người dân Mỹ và người
dân trên toàn thế giới chấn động với “Vụ Snowden”: một vụ án đặc biệt mà ở đó,
đặc vụ Snowden đã tiết lộ: toàn bộ hệ thống máy chủ của các tập đoàn truyền
thông lớn như Verizon, Microsoft, Google, Facebook, Apple, Yahoo, PalTalk,
Skype, YouTube… đã bị cơ quan an ninh quốc gia (NSA) Mỹ trực tiếp xâm nhập nhằm
kiểm tra các đoạn phim, ảnh, tư liệu của người sử dụng, kể cả công dân Mỹ và
công dân các nước khác trên thế giới. Chương trình này được NSA gọi tên là
“PRISM” và bắt đầu tiến hành từ năm 2007.
Quy trình hoạt động
của PRISM là: Các công ty cung cấp các dịch vụ trên nhận lệnh trực tiếp từ Bộ
trưởng Bộ Tư pháp và Giám đốc Tình báo quốc gia, buộc phải trao quyền truy cập
máy chủ và hàng tá dữ liệu, thông tin liên lạc mỗi ngày được chuyển tới các đơn
vị công nghệ của FBI rồi chuyển tiếp đến
NSA. Từ đó, thông tin sau khi được xử lý và xây dựng thành các báo cáo tình báo
gửi đến Tổng thống Obama. PRISM là nguồn cung cấp dữ liệu cho hơn 2.000 báo cáo
tình báo mỗi tháng của nước Mỹ và đã có 77.000 báo cáo được sử dụng nguồn từ dữ
liệu của PRISM trong suốt thời gian tổng thống Obama nắm quyền.
Như vậy, dưới thời
Obama, người dân Mỹ được truyền thông về một không gian tự do Internet, thậm
chí còn có hẳn một bộ nguyên tắc Trung lập mạng, khiến cho ai cũng nghĩ rằng
mình đang được tự do. Thế nhưng, cuối cùng thì nhất cử nhất động của từng người
trên mạng đều được ghi lại, theo dõi và đánh giá. Tính ra, PRISM tinh vi hơn tất
cả các đạo luật mạng trước đó, vì nó ngấm ngầm kiểm soát không chỉ người dân Mỹ
mà còn theo dõi những người dùng các dịch vụ Microsof, Google, Facebook,… ngoại
quốc. “Vụ Snowden” trên thực tế đã là một khẳng định: Trên Internet, không có tự
do; và ở Mỹ, càng không có tự do với Internet.
Đến thời tổng thống
Donald Trump, nguyên tắc Trung lập mạng bị bãi bỏ vào năm 2017, lại một lần nữa
khiến dư luận dậy sóng. Từ đây, việc chặn mạng và chặn người sử dụng mạng dễ
dàng hơn bao giờ hết. Cũng từ đây, người dân Mỹ buộc phải bỏ ra một khoản tiền
cao hơn rất nhiều để có thể truy cập mạng nhanh. Vậy là, người Mỹ không chỉ bị
mất tự do Internet, mà còn bị mất thêm cả tiền để có thể “tự do” vào được
Internet.
Cũng từ khi Donald
Trump lên nắm quyền, Bộ Tư pháp Mỹ (DOJ) đã bắt buộc một công ty lưu trữ
internet là Dreamhost cung cấp thông tin về tất cả những người đã truy cập
disruptj20.org, một website khách hàng của Dreamhost, chuyên chức các cuộc biểu
tình chống nhậm chức của ông Trump. Vậy là, sau một thời kỳ “lạt mềm buộc chặt”
dưới quyền hành của tổng thống Barrack Obama, thì đến thời của Donald Trump,
người dân Mỹ lại đứng trước thực tế: Không có tự do trên Internet, thậm chí, nếu
chống đối nhà nước, bất kỳ ai cũng có thể bị khép tội.
Những đạo luật an
ninh mạng của Mỹ kể trên cho đến nay vẫn còn hoạt động. Và dù lấy danh nghĩa là
“ngăn chặn khủng bố”, song hầu hết người dân Mỹ trên Internet đều bị kiểm soát
chặt chẽ và có thể bị xếp diện “nghi phạm khủng bố” nếu có “căn cứ” cần theo dõi.
Những đạo luật này đã có từ năm 2001 và kéo dài đến tận ngày nay, cho thấy
chính phủ Mỹ cực kỳ khắt khe trong việc kiểm soát không gian mạng, không chỉ ở
Mỹ mà còn ở nước ngoài. Điều này cũng cho thấy, ngăn chặn tội phạm mạng là hành
động phổ biến ở các nước khác nhau trên thế giới. Điều quan trọng là “cây ngay
không sợ chết đứng” mà thôi.
Tất cả những thông
tin trên đã chứng minh rằng: Những khẳng định về tự do Internet tại Mỹ của những
ông bà khoác áo “đấu tranh dân chủ” chỉ là võ đoán, thiếu căn cứ, thậm chí là bịa
đặt. Hành động bịa đặt ấy xuất phát từ việc chính bản thân những người này đang
vi phạm pháp luật, đang có những động thái đáng ngờ, và muốn tìm một nơi chốn để
thực hành những động thái đó. Những người tung hô tự do Internet ở Mỹ này nên trực
tiếp đến Mỹ, để biết rằng ở Mỹ, hãy thận trong khi hưởng tự do!
ST
0 nhận xét:
Đăng nhận xét