Ngày 15/10, trên trang facebook Việt Nam Thời Báo có bài: “Quyền chính trị của phụ nữ Việt Nam” của Hà Nguyên, cho rằng: “Tỷ lệ nữ tham gia chính trường là nằm trong “hạn ngạch” của Bộ Chính trị”, và để minh chứng cho điều đó, bài viết đã trích dẫn mục tiêu đến năm 2030 mà Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đã đề ra: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20%-25%” và Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, yêu cầu: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ”. Từ đó, y kết luận: “Tỷ lệ này cho thấy quyền chính trị của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt, và điều đó nếu nói nặng nề hơn thì đây là chỉ dấu của vi phạm nhân quyền, mà cụ thể là Công ước CEDAW”(!).
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu dự Hội nghị đối thoại với phụ nữ Việt Nam, buổi sáng 15/10/2022 |
Chúng ta đã biết, ngày 18/12/1979, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã phê chuẩn CEDAW (tên viết tắt của “Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ”). Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký kết tham gia Công ước này vào ngày 29/7/1980 và được phê chuẩn ngày 27/11/1981. Đồng thời, luôn thực hiện nghiêm những điều ước của CEDAW mà Việt Nam là thành viên.
Nhất quán và thực thi nghiêm túc Công ước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đề ra nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để tạo lập sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ, Khoản 1 và Khoản 3, Điều 26, Hiến pháp (năm 2013) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”; “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Để tạo lập quyền được ưu tiên của phụ nữ, Khoản 2, Điều 26, Hiến pháp (năm 2013), quy định: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Trước đó, ngày 29/11/2006, kỳ họp thứ 10, Quốc hội (khóa XI), đã thông qua Luật Bình đẳng giới, đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để thực hiện mục tiêu bình đẳng nam nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; trong đó, có lĩnh vực chính trị. Luật này đã nhấn mạnh đến các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị, gồm: (1) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. (2) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thể hiện rõ quan điểm về công tác cán bộ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là: “Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng”. Cùng với đó, ngày 24/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020, xác định ba chỉ tiêu cụ thể, để “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”, v.v.
Với những nỗ lực tích cực trên, sự tham gia của phụ nữ vào đời sống chính trị đất nước đã có sự tăng lên, số nữ Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Trung ương Đảng tăng liên tiếp trong 03 nhiệm kỳ; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV tăng 2,3% so với khóa XIII và 01% so với khóa XII. Đặc biệt, lần đầu tiên có Chủ tịch Quốc hội là nữ và Bộ Chính trị (khóa XII), có 03 nữ Ủy viên Tính đến hết năm 2017, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội đạt 27,1% cao hơn mức trung bình của toàn cầu (23,4%) và của châu Á (18,6%) và năm 2018 tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội là 27,2%. Tỷ lệ nữ làm Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội tăng lên (năm 2016 là 23,1%, cao hơn 12% so với năm 2011). Tính đến năm 2017 tỷ lệ số bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ là 13/30 (chiếm 43%) và năm 2018 là 14/30, chiếm 47%. Trong nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng, cán bộ nữ tham gia cấp ủy ở cả ba cấp đều tăng về số lượng và chất lượng. Cụ thể ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21% (tăng 02%) so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp trên cơ sở đạt 17% cũng tăng 02%. Đối với các đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16% và tăng 03% so với nhiệm kỳ trước. Điều đáng vui mừng hơn nữa là có hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ chốt trong Đảng và chính quyền ở cả ba cấp.
Thực tiễn trên minh chứng: quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam được bảo đảm tốt, tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy, chính quyền không chỉ cao hơn của khu vực châu Á mà còn cao hơn toàn cầu. Điều đó cho thấy, ở Việt Nam không có chuyện “Quyền chính trị của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt” và không “Vi phạm nhân quyền, vi phạm Công ước CEDAW” như Việt Nam Thời Báo cáo buộc. Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp tục phấn đấu hơn nữa để thực hiện nam, nữ bình quyền trên mọi lĩnh vực; đồng thời, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện và phát huy vai trò của mình trong xã hội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét